QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 194/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Họp phiên tòa ngày 13/5/2014, tại trụ sở Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự: “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do có Quyết định kháng nghị số 48/KN-DS ngày 25/02/2014 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DSPT ngày 25/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương có các đương sự là

Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Lạnh, sinh năm 1967.

Bị đơn: Ông Hoàng Văn Ba, sinh năm 1965;

Bà Phạm Thị Xuyến, sinh năm 1967.

Đều trú tại: Khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Vũ Quang Lẩy, sinh 1973;

2. Bà Trương Thị Thanh, sinh năm 1977.

Trú tại: Khu 6, thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

NHẬN THẤY

Tại đơn khởi kiện ngày 28/7/2008 nguyên đơn là bà Hoàng Thị Lạnh trình bày: Bà và ông Hoàng Văn Ba là ông em ruột. Do hoàn cảnh gia đình bà rất khó khăn, cha là liệt sỹ, nên năm 1988 bà đi lao động tại Liên Xô cũ. Quá trình lao động, bà gửi hàng, đô la Mỹ (USD) về nước cho ông Ba bán và giữ hộ, cụ thể:

- 02 lần gửi hàng: Năm 1990 bà gửi 01 thùng hàng, ông Ba nhận và bán được 20.000.000đ; năm 1992 bà gửi tiếp thùng hàng thứ 2, ông Ba bán và mua giữ hộ bà 01 cây vàng 9999;

- 06 lần gửi tiền: Năm 1993 bà gửi hai lần là 5000 USD, năm 1994 gửi hai lần là 4000 USD, năm 1995 và 1996 mỗi năm gửi 2000 USD, tổng số tiền gửi là 13.000 USD.

Năm 1994, UBND xã Lê Bình (nay là thị trấn Thanh Miện) tổ chức bán đất đấu thầu đất để giãn dân. Ông Ba đã bàn với cụ Sùn, bà Lành, cụ Sáp (chú ruột) để mua cho bà một suất đất trước cửa trường cấp I xã Lê Bình (nay là trường Tiểu học cơ sở thị trấn Thanh Miện) với giá 75.000.000đ, việc ông Ba mua đất đấu thầu có mẹ bà, bà Lành, ông Sáp, ông Thể (ông con bác) biết, ngoài ra còn có ông Dũng (khi đó là Chủ tịch xã, nay là bí thư đảng ủy), ông Chiến (nay là cán bộ địa chính) và dân làng cùng biết sự việc. Sau khi đã mua đất đấu thầu, ngày 16/3/1995 ông Ba viết thư để báo là đã mua được đất cho bà, sau này nếu không dùng thì bán. Bà có viết thư trả lời đồng ý nhưng hiện ông Ba không xuất trình thư này.

Số tiền mua đất là 75 triệu đồng, bao gồm:20 triệu đồng (tiền bán thùng hàng thứ nhất), và 55 triệu đồng đổi từ 5100 USD (khi đó 1USD =11.000đ) là tiền của bà gửi ông Ba.

Năm 2004, do bà không có mặt tại địa phương, nên bà để ông Ba đứng tên cấp giấy CNQSD đất tại thửa 521 tờ bản đồ số 4 diện tích 100m2.

Năm 2008, ông Ba chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng ông Vũ Quang Lẩy, bà Trương Thị Thanh. Bà phát hiện, đã có đơn đề nghị cấp có thẩm quyền tạm dừng làm thủ tục chuyển nhượng.

Nay bà yêu cầu ông Hoàng Văn Ba và bà Phạm Thị Xuyến trả lại thửa đất trên, hiện trạng thửa đất từ khi nhận chuyển nhượng đến khi xảy ra trông chấp vẫn là ao bèo. Khi Tòa án đang xét xử thì ông Lầy, bà Thanh có thuê người san lấp diện tích khoảng 30m2, nên bà không đồng ý trả công bảo quản tôn tạo đất cho vợ chồng ông Ba và công san lấp cho vợ chồng ông Lẩy.

Năm 2006 bà có nhận của ông Ba 10 triệu đồng (đối trừ 1 cây vàng ông Ba còn giữ) và sau khi trừ tiền mua đất (5.100 USD) thì còn lại 7.900 USD, bà xác đinh cho bà Yến (con của ông Ba) 2000 USD do bà Yến có sang Nga trông con giúp bà năm 2006 và ông Ba có chi 200 USD để lo việc ăn hỏi cho bà nên còn lại 5.700 USD, bà yêu cầu ông Ba trả số tiền này quy đổi ra Việt nam đồng, bà không yêu cầu lãi. Tại phiên tòa phúc thẩm bà đồng ý chỉ đòi 5000 USD như ông Ba thừa nhận. Còn chiếc xe mô tô Dream II bà gửi về năm 1994, ông Ba tự ý sử dụng, nay bà xác định cho ông Ba.

Bà kết hôn với ông Soi từ năm 1996 nhưng các tài sản trên là tài sản riêng của bà (ông Soi có xác nhận không liên quan đến tài sản tranh chấp). Bà và ông Soi chưa thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung. Hiện ông Soi vẫn lao động tại Nga còn bà và các con đã nhập hộ khẩu và thường trú tại thị trấn Thanh Miện. Cụ Sùn (mẹ của bà) hiện gần 80 tuổi tinh thần không còn minh mẫn, sáng suốt.

Bị đơn là ông Hoàng Văn Ba và bà Phạm Thị Xuyến trình bày

Ông có nhận tiền và hàng của bà Lạnh gửi về giữ hộ, cụ thể:

- Năm 1993, ông, cùng ông Trần Văn An (người cùng xã), ông Đặng Trọng Dũng (chủ tịch xã) đi Hà Nội nhận số tiền gửi về là 2000 USD;

- Năm 1993, 1994, ông có nhận thêm 03 lần, một lần gửi 200 USD, hai lần tiếp gửi mỗi lần 100 USD, tổng là 400 USD, nhưng số tiền này bà Lạnh nói là cho cụ Sún và các con của ông;

- Năm 1995, ông nhận 4000 USD. Tổng số tiền gửi là 6000 USD;

- Ngoài ra, bà Lạnh còn 02 lần gửi hàng về: lần 1 năm 1991 ông bán thùng hàng được 20 triệu đồng và quy đổi thành 1000 USD; lần 2, ông bán thùng hàng mua được 1 cây vàng nhưng năm 2006, ông đã giao cho bà Lạnh 10 triệu đồng tương ứng 1 cây vàng này.

Như vậy, tổng số tiền và hàng quy ra tiền ông còn giữ của bà Lạnh là 7000 USD như bà Lạnh đã nêu trong nội dung lá thư năm 2006 gửi cho ông. Bà Lạnh xác định cho con của ông 2000 USD nên ông chỉ đồng ý trả 5000 USD còn lại.

Đối với phần đất: Năm 1994, vợ chồng ông đấu thầu đất với số tiền 75 triệu đồng. Số tiền đó gia đình ông có 25 triệu, vay cụ Tuyến (cha của bà Xuyến) 30 triệu, vay của ông Ba 5 triệu, vay của ông Liễu 10 triệu đồng. Khi vay không có giấy tờ, hiện gia đình ông đã trả nợ xong.

Ông xác định ngày 16/3/1995, ông có viết thư hỏi ý kiến bà Lạnh về việc mua đất cho bà Lạnh nhưng bà Lạnh không hồi âm trả lời nên vợ chồng ông đã tự đấu thầu đất cho mình và vay mượn tiền để trả như nội dung nêu trên.

Năm 2004 ông đã làm thủ tục, đứng tên trong giấy CNQSD đất.

Năm 2008, ông đã chuyển nhượng thửa đất trên cho vợ chồng ông Lẩy. Đơn xin chuyển nhượng đã có xác nhận của Chủ tịch UBND thị trấn, gia đình ông đã nhận tiền của ông Lẩy.

Nay vợ chồng ông không đồng ý trả đất theo yêu cầu của bà Lạnh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Vũ Quang Lẩy và bà Trương Thị Thanh trình bày: Vợ chồng ông bà chỉ biết ông Hoàng Văn Ba đứng tên trên giấy CNQSD đất và không biết bà Lạnh có liên quan đến đất. Ồng bà đã xem thực tế đất, nên đã làm thủ tục chuyển nhượng với ông Ba. Ông bà đã giao 627 triệu cho ông Ba và ông Ba đã giao giấy giấy CNQSD đất cho ông, bà. Do vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ba và vợ chồng ông bà là đúng theo quy định của pháp luật. Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng ông có san lấp hết ba triệu đồng. Vợ chồng ông bà đề nghị Tòa án công nhận họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông bà và ông Ba.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2008/DSST ngày 26/12/2008, Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện quyết định:Chấp nhận yêu cầu của bà Lạnh, buộc ông Ba trả cho bà Lạnh thửa đất số 521. Bà Lạnh được quyền sử dụng thửa đất này. Buộc ông Ba trả cho bà Lạnh 5.700 USD đổi ra 96 triệu đồng

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Ba và ông Lẩy có kháng cáo Viện trưởng VKSND tỉnh Hải Dương có kháng nghị.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 08/2009/DSPT ngày 12/3/2009, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định: Hủy án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DS -ST, ngày 15/11/2010, Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện quyết định: Xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà Hoàng Thị Lạnh buộc ông Hoàng Văn Ba và bà Phạm Thị Xuyến trả lại bà Lạnh 100m2 đất đấu thầu trị giá 950.000.000đ tại tờ bản đồ số 4, thửa số 521 ở khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện, Thanh Miện, Hải Dương đã có giấy CNQSD đất mang tên Hoàng Văn Ba cấp ngày 26/5/2004. Xử giao bà Lạnh quyền sử dụng 100m2 đất đấu thầu ông Ba, bà Xuyến trả lại nói trên. Bà Lạnh có quyền làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lạnh buộc ông Hoàng Văn Ba Thanh toán trả bà Lạnh 5000 USD tương đương 97.500.000đ. Xử buộc bà Lạnh phải Thanh toán cho vợ chồng ông Ba, bà Xuyến tiền thù lao, công sức trông nỏm quản lý diện tích đất nói trên từ năm 1994 đến năm 2008 vởi số tiền là 140.000.000đ (mỗi năm 10 triệu X 14 năm). Buộc bà Lạnh phải Thanh toán cho vợ chồng ông Lẩy, bà Thanh 3,6 triệu tiền công san lấp.

Ngày 27/11/2010, bà Lạnh kháng cáo không đồng ý trả tiền công sức cho vợ chồng ông Ba và không đồng ý trả tiền san lấp cho vợ chồng ông Lẩy. Đồng thời bà yêu cầu ông Ba trả bà 5700 USD.

Ngày 28/11/2010, ông Lẩy kháng cáo không đồng ý việc Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông với vợ chồng ông Ba về mảnh đất trông chấp, đồng thời ông yêu cầu định giá lại thửa đất đang trông chấp.

Ngày 06/12/2010, ông Ba, bà Xuyến kháng cáo không đồng ý trả đất cho bà Lanh và không đồng ý tính lỗi đối với họp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu, đồng thời ông bà không yêu cầu trả tiền công sức quản lý đất.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DSPT ngày 25/3/2011, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dươngquyết định sửa án sơ thẩm như sau: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Văn Ba và bà Phạm Thị Xuyến. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Hoàng Thị Lạnh và của ông Vũ Quang Lẩy, sửa bản án sơ thẩm dân sự. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Vũ Quang Lẩy, bà Trương Thị Thanh về việc đòi công nhận Họp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa ông Hoàng Văn Ba với vợ chồng ông Vũ Quang Lẩy. Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối vói diện tích đất 100m2, tại tờ bản đồ số 4, thửa số 521 ở khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện, Thanh Miện, Hải Dương đã có giấy CNQSD đất mang tên Hoàng Văn Ba cấp ngày 26/5/2004 được xác lập giữa vợ chồng ông Vũ Quang Lẩy, bà Trương Thị Thanh và ông Hoàng Văn Ba là vô hiệu, hai bên có trách nhiệm hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Buộc vợ chồng ông Hoàng Văn Ba, bà Phạm Thị Xuyến phải có trách nhiệm trả lại vợ chồng ông Vũ Quang Lẩy, bà Trương Thị Thanh số tiền đã nhận là 627.000.000đ và có nghĩa vụ trả số tiền chênh lệch giá do lỗi của mình gây ra là 1.273.000.000đ. Tổng cộng phải trả là 1.900.000.000đ

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Lạnh về đòi QSD đất. Buộc ông Hoàng Văn Ba, bà Phạm Thị Xuyến cùng ông Vũ Quang Lẩy bà Trương Thị Thanh phải trả lại bà Hoàng Thị Lạnh 100m2 đất đấu thầu trị giá là 1.900.000.000đ, tại tờ bản đồ số 4, thửa số 521 ở khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện, Thanh Miện, Hải Dương đã có giấy CNQSD đất mang tên Hoàng Văn Ba cấp ngày 26/5/2004, để bà Lạnh quản lý và sử dụng. UBND huyện Thanh Miện thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X 418278 cấp ngày 26/5/2004 cho ông Ba.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện đòi tài sản của bà Hoàng Thị Lạnh đối vứi ông Hoàng Văn Ba, bà Phạm Thị Xuyến. Buộc ông Hoàng Văn Ba, bà Phạm Thị Xuyến Thanh toán trả bà Hoàng Thị Lạnh 5000USD, quy đổi ra tiền Việt Nam theo báo Hải Dương tại ngày xét xử sơ thẩm tương đương 97.500.000đ.

Ngày 10/5/2013, bà Thanh có đơn yêu cầu xem xét lại bản án phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định số 48/KN-DS ngày 25/02/2014 của của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DSPT ngày 25/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương. Đề nghị Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 15/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện VKSND tối cao đề nghị đồng ý với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

XÉT THẤY

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án thì bà Lạnh khởi kiện cho rằng từ năm 1988, bà đi lao động tại Liên Xô (cũ), trong thời gian ở nước ngoài, bà có gửi cho ông Hoàng Văn Ba (anh của bà) tổng số tiền 13.000 USD (trong đó bà cho gia đình ông Ba và chi phí cho bà hết 2.200 USD), đồng thời có gửi về cho ông Ba 02 thùng hàng (01 thùng bán được 20 triệu); năm 1994, ông Ba sử dụng 5.100 USD và 20 triệu đồng của bà để mua 100m2 đất tại xã Lê Bình (nay là thửa đất số 521, tờ bản đồ số 4 Khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện), nên bà yêu cầu ông Ba trả lại số tiền còn lại là giá trị 5.700 USD và thửa đất nêu trên.

Ông Ba thì chỉ thừa nhận có nhận của bà Lạnh 7000 USD (trong đó bà Lạnh hứa cho 2000 USD) nên ông chỉ đồng ý trả cho bà Lạnh 5000 USD, còn thửa đất 100m2 là do gia đình ông bỏ tiền và vay mượn thêm để mua với giá 75 triệu nên không đồng ý trả.

Trong quá trình tố tụng, bà Lạnh đồng ý yêu cầu ông Ba trả giá trị 5000 USD như ông Ba trình bày nên Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Ba trả cho bà Lạnh số tiền này được quy đổi ra VND là có căn cứ pháp luật.

về thửa đất số thửa đất số 521, tờ bản đồ số 4 Khu Bất Nạo, thị trấn Thanh Miện, mặc dù ông Ba cho rằng do gia đình ông bỏ tiền ra mua mà không phải bằng tiền của bà Lạnh, tuy nhiên tại lá thư ngày 16/3/1995 (do ông Ba viết gửi cho bà Lạnh) thì ông Ba xác định: “Kiện hàng em gửi về anh bán tất cả được hai chục triệu, anh đã bán cộng số tiền em gửi về là anh mua một suất đất, sau này em có về thì dùng...”. Do đó, có căn cứ xác định việc ông Ba chuyển nhượng đất năm 1994 bằng tiền của bà Lạnh và chuyển nhượng đất cho bà Lạnh để sau này bà Lạnh có về nước thì sử dụng. Tuy nhiên, thời điểm này bà Lanh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài (cư trú tại Liêng bang Nga) nên chưa đủ điều kiện để sở hữu nhà đất tại Việt Nam nhưng hiện nay bà Lạnh đã về nước, có hộ khẩu và đăng ký thường trú tại huyện Thanh Miện, nên theo quy định của pháp luật thì bà Lạnh đủ điều kiện sở hữu nhà đất, do đó, bà Lạnh đòi lại quyền sử dụng đất là có căn cứ. Tuy nhiên, trong thực tế từ năm 1994 đến nay ông Ba có nhiều công sức trong việc chuyển nhượng hộ đất, quản lý và tôn tạo đất cho bà Lạnh, hiện giá đất đã tăng nhiều so với thời điểm năm 1994, do đó lẽ ra khi công nhận bà Lạnh được quyền sử dụng đất thì phải buộc bà Lạnh thanh toán công sức cho vợ chồng ông Ba (phần công sức tối thiểu bằng 1/3 giá trị tăng thêm của thửa đất so với khi mua) thì mới họp tinh họp lý và bảo đảm quyền lợi cho các đương sự. Tòa án cấp phúc thẩm buộc ông Ba trả đất cho bà Lạnh nhưng không tính công sức cho ông Ba là không đúng, còn Tòa án cấp sơ thẩm chỉ tính công sức cho ông Ba là 140 triệu đồng là không tương xứng với công sức do ông Ba đã bỏ ra.

Từ những phân tích trên, xét kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao là có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ khoản 2 Điều 291; khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 07/2011/DSPT ngày 25/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 05/2010/DSST ngày 15/11/2010 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương về vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Hoàng Thị Lạnh với bị đơn là ông Hoàng Văn Ba, bà Phạm Thị Xuyến và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 194/DS-GĐT NGÀY 13/05/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT TÒA DÂN SỰ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án